Hải Dương là một tỉnh nằm ở đồng bằng sông Hồng, thuộc Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Hải Dươngnằm cách thủ đô Hà Nội 57 km về phía đông, cách thành phố Hải Phòng 45 km về phía tây. phía tây bắc giáp tỉnh Bắc Ninh, phía bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía đông bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía đông giáp thành phố Hải Phòng, phía nam giáp tỉnh Thái Bình và phía tây giáp tỉnh Hưng Yên.Hải Dương còn là đô thi loại 2.
Theo quy hoạch năm 2007, Hải Dương nằm trong Vùng thủ đô với vai trò là một trung tâm công nghiệp của toàn vùng[2].
Theo quy hoạch năm 2007, Hải Dương nằm trong Vùng thủ đô với vai trò là một trung tâm công nghiệp của toàn vùng[2].
Các đơn vị hành chính Hải Dương bao gồm 01 thành phố trực thuộc, 01 thị xã và 10 huyện:
|
|
- Huyện Thanh Hà 1 thị trấn, 24 xã: Thị trấn Thanh Hà, Xã Hồng Lạc, Xã Việt Hồng, Xã Quyết Thắng, Xã Tân Việt, Xã Cẩm Chế, Xã Thanh An, Xã Thanh Lang, Xã Tiền Tiến, Xã Tân An, Xã Liên Mạc, Xã Thanh Hải, Xã Thanh Khê, Xã Thanh Xá, Xã Thanh Xuân, Xã An Lương, Xã Thanh Thủy, Xã Phượng Hoàng, Xã Thanh Sơn, Xã Hợp Đức, Xã Trường Thành, Xã Thanh Bính, Xã Thanh Hồng, Xã Thanh Cường, Xã Vĩnh Lập.
- Huyện Cẩm Giàng 2 thị trấn, 17 xã: Thị trấn Cẩm Giàng, Thị trấn Lai Cách, Xã Cẩm Hưng, Xã Cẩm Hoàng, Xã Cẩm Văn, Xã Ngọc Liên, Xã Thạch Lỗi, Xã Cẩm Vũ, Xã Đức Chính, Xã Cẩm Sơn, Xã Cẩm Định, Xã Kim Giang, Xã Lương Điền, Xã Cao An, Xã Tân Trường, Xã Cẩm Phúc, Xã Cẩm Điền, Xã Cẩm Đông, Xã Cẩm Đoài.
- Huyện Bình Giang 1 thị trấn, 17 xã: Thị trấn Kẻ Sặt, Xã Hưng Thịnh, Xã Vĩnh Tuy, Xã Hùng Thắng, Xã Tráng Liệt, Xã Vĩnh Hồng, Xã Long Xuyên, Xã Tân Việt, Xã Thúc Kháng, Xã Tân Hồng, Xã Bình Minh, Xã Hồng Khê, Xã Thái Học, Xã Cổ Bi, Xã Nhân Quyền, Xã Thái Dương, Xã Thái Hòa, Xã Bình Xuyên.
- Huyện Gia Lộc 1 thị trấn, 22 xã: Thị trấn Gia Lộc, Xã Liên Hồng, Xã Thống Nhất, Xã Trùng Khánh, Xã Gia Xuyên, Xã Yết Kiêu, Xã Gia Hòa, Xã Phương Hưng, Xã Gia Tân, Xã Tân Tiến, Xã Gia Khánh, Xã Gia Lương, Xã Lê Lợi, Xã Toàn Thắng, Xã Hoàng Diệu, Xã Hồng Hưng, Xã Phạm Trấn, Xã Đoàn Thượng, Xã Thống Kênh, Xã Quang Minh, Xã Đồng Quang, Xã Nhật Tân, Xã Đức Xương.
- Huyện Tứ Kỳ 1 thị trấn, 26 xã: Thị trấn Tứ Kỳ, Xã Ngọc Sơn, Xã Kỳ Sơn, Xã Đại Đồng, Xã Hưng Đạo, Xã Ngọc Kỳ, Xã Bình Lăng, Xã Tứ Xuyên, Xã Tái Sơn, Xã Quang Phục, Xã Đông Kỳ, Xã Tây Kỳ, Xã Dân Chủ, Xã Tân Kỳ, Xã Quang Khải, Xã Đại Hợp, Xã Quảng Nghiệp, Xã An Thanh, Xã Minh Đức, Xã Văn Tố, Xã Quang Trung, Xã Phượng Kỳ, Xã Cộng Lạc, Xã Tiên Động, Xã Nguyên Giáp, Xã Hà Kỳ, Xã Hà Thanh.
- Huyện Ninh Giang 1 thị trấn, 27 xã: Thị trấn Ninh Giang, Xã Quyết Thắng, Xã ứng Hoè, Xã Nghĩa An, Xã Hồng Đức, Xã Ninh Hòa, Xã An Đức, Xã Vạn Phúc, Xã Tân Hương, Xã Ninh Thành, Xã Vĩnh Hòa, Xã Đông Xuyên, Xã Hoàng Hanh, Xã Quang Hưng, Xã Tân Phong, Xã Ninh Hải, Xã Đồng Tâm, Xã Tân Quang, Xã Kiến Quốc, Xã Hồng Thái, Xã Hồng Dụ, Xã Văn Hội, Xã Hưng Thái, Xã Hồng Phong, Xã Hiệp Lực, Xã Hồng Phúc, Xã Hưng Long, Xã Văn Giang.
- Huyện Thanh Miện 1 thị trấn, 18 xã: Thị trấn Thanh Miện, Xã Thanh Tùng, Xã Phạm Kha, Xã Ngô Quyền, Xã Đoàn Tùng, Xã Hồng Quang, Xã Tân Trào, Xã Lam Sơn, Xã Đoàn Kết, Xã Lê Hồng, Xã Tứ Cường, Xã Hùng Sơn, Xã Ngũ Hùng, Xã Cao Thắng, Xã Chi Lăng Bắc, Xã Chi Lăng Nam, Xã Thanh Giang, Xã Diên Hồng, Xã Tiền Phong.
- Theo quy hoạch Xây dựng vùng tỉnh Hải Dương đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030, Hải Dương sẽ hình thành 3 cụm đô thị động lực mạnh: thành phố Hải Dương - hành lang quốc lộ 5; Chí Linh - Kinh Môn; cụm Thanh Miện và khu vực phía nam tỉnh. Quy hoạch cũng thể hiện sự phát triển theo các trục hành lang tạo thành mạng lưới, khung phát triển của quy hoạch lãnh thổ tỉnh. Định hướng phát triển công nghiệp gồm có khu công nghiệp và các cụm công nghiệp với tổng số 25 khu công nghiệp với tổng diện tích 5.400 ha.
- Hệ thống đô thị được định hướng gồm Thành phố Hải Dương đạt đô thị loại I trước năm 2020 là hạt nhân; TX Chí Linh là đô thị trung tâm phía bắc; chuỗi thị trấn Kinh Môn, Minh Tân, Phú Thứ phát triển thành Thị xã Kinh Môn vào năm 2015; thị trấn Kẻ Sặt (Bình Giang) mở rộng và nâng cấp lên đô thị loại IV và thành Thị xã vào năm 2020; các thị trấn Phú Thái (Kim Thành), Ninh Giang và Thanh Miện nâng cấp thành đô thị loại IV khoảng năm 2025... Hệ thống hạ tầng kỹ thuật của tỉnh sẽ nâng cấp và quy hoạch mới các tuyến đường bộ, đường sắt, đường thủy và các cảng cạn, bến bãi… Bản quy hoạch cũng thể hiện quan điểm lựa chọn các dự án ưu tiên đầu tư tới năm 2015 - 2020 gồm các công trình xã hội, công trình hạ tầng kỹ thuật…
Lịch sử
Thời phong kiến, Hải Dương là một miền đất rất rộng lớn. phía tây đến Bần Yên Nhân (nay thuộc tỉnh Hưng Yên), phía đông đến vùng biển (nay thuộc thành phố Hải Phòng), phía nam từ Lực Điền đến cầu Tràng (nay thuộc tỉnh Hưng Yên), phía bắc từ Trạm Điền xuống núi Tam Ban, Yên Tử (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh). Miền đất Hải Dương luôn ở vị trí chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong “Dư địa chí”, Nguyễn Trãi đã đánh giá Hải Dương là trấn thứ nhất trong bốn kinh trấn và là phên giậu phía đông của kinh thành Thăng Long.
Đời Hùng Vương xưa, Hải Dương là bộ Dương Tuyền; thời nhà Tần thuộc Tượng quận. Thời nhà Hán thuộc quận Giao Chỉ; thời nhà Đông Ngô thuộc Giao Châu; nhà Đường đặt Hải Môn trấn, sau đổi thành Hồng Châu.
Mảnh đất Hải Dương hiện đang lưu giữ khối lượng lớn văn hoá vật thể và phi vật thể đa dạng, độc đáo với 1.098 di tích lịch sử, văn hoá, danh thắng. Từ những dấu ấn thời kỳ đồ đá cũ có niên đại trên 3 vạn năm ở hang Thánh Hoá, núi Nhẫm Dương, đến những di chỉ, di vật có giá trị của thời đại đồ Ðồng tại Ðồi Thông (Kinh Môn), Hữu Chung (Tứ Kỳ), làng Gọp (Thanh Hà),... Văn hoá Lý, Trần, Lê, Nguyễn là dòng chảy liên tục và rực sáng trên vùng đất này, đã tạo nên một không gian văn hoá đặc biệt - nơi kết hợp hài hòa cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ với chiều sâu lịch sử và tâm linh với 127 di tích được xếp hạng quốc gia mà tiêu biểu là Côn Sơn - Kiếp Bạc, Phượng Hoàng (Chí Linh). Chỉ trong một không gian chừng 5 km2 đã có hàng chục di tích lưu giữ những kỷ niệm về 3 danh nhân vĩ đại của đất nước và thế giới. Ðó là Trần Hưng Ðạo- danh nhân quân sự, Nguyễn Trãi - danh nhân văn hoá, Chu Văn An - "người thầy của muôn đời"; cùng An Phụ, Kính Chủ (Kinh Môn) đã trở thành những huyền thoại của non sông đất Việt.
Đời Hùng Vương xưa, Hải Dương là bộ Dương Tuyền; thời nhà Tần thuộc Tượng quận. Thời nhà Hán thuộc quận Giao Chỉ; thời nhà Đông Ngô thuộc Giao Châu; nhà Đường đặt Hải Môn trấn, sau đổi thành Hồng Châu.
- Nhà Đinh chia làm đạo, vẫn mang tên là Hồng Châu; nhà Tiền Lê cũng theo như nhà Đinh.
- Nhà Lý đổi thành lộ Hồng, sau đổi thành lộ Hải Đông.
- Nhà Trần đổi lại thành lộ Hồng, rồi lại đổi thành lộ Hải Đông. Sau đó đổi làm 4 lộ: Hồng Châu thượng, Hồng Châu hạ và Nam Sách thượng, Nam Sách hạ, còn gọi là Nam Sách Giang.
- Năm Quang Thái thứ 10 (1397) vua Trần Thuận Tông đổi làm trấn Hải Đông
- Thời kỳ thuộc Minh (1407-1427), thuộc hai phủ Lạng Giang và Tân An.
- Nhà Hậu Lê năm Thuận Thiên (1428-1433), vua Lê Thái Tổ cho thuộc Đông Đạo
- Khoảng niên hiệu Diên Ninh (1454-1459) vua Lê Nhân Tông chia làm 2 lộ: Nam Sách thượng và Nam Sách hạ
- Năm Quang Thuận thứ 7 (1466) vua Lê Thánh Tông đặt thừa tuyên Nam Sách.
- Năm 1469, đổi làm thừa tuyên Hải Dương.
- Năm Hồng Đức thứ 21 (1479) đổi làm xứ.
- Khoảng giữa năm Hồng Thuận (1510-1516) vua Lê Tương Dực đổi làm trấn; Nhà Mạc lấy Nghi Dương làm Dương Kinh, trích phủ Thuận An ở Kinh Bắc và các phủ Khoái Châu, Tân Hưng, Kiến Xương, Thái Bình ở Sơn Nam cho lệ thuộc vào Dương Kinh.
- Nhà Hậu Lê, khoảng niên hiệu Quang Hưng (1578-1599), vua Lê Thế Tông đổi làm trấn theo nguyên như cũ.
- Năm Cảnh Hưng thứ 2 - 1741 vua Lê Hiển Tông chia làm 4 đạo: Thượng Hồng, Hạ Hồng, Đông Triều và An Lão; Nhà Tây Sơn đem phủ Kinh Môn đổi thuộc vào Yên Quảng.
- Năm 1802, vua Gia Long đem Kinh Môn thuộc về trấn cũ và lệ thuộc vào Bắc Thành.
- Năm 1804, đời Vua Gia Long, lị sở Hải Dương được chuyển từ Mao Điền về tổng Hàn Giang, đặt trên vùng đất cao thuộc ngã ba sông Thái Bình và sông Sặt với mục tiêu trấn thành án ngữ vùng biên hải phía đông Kinh đô Thăng Long, chính vì vậy có tên gọi là Thành Đông - có nghĩa: đô thành ở phía đông.
- Năm Minh Mạng thứ 3 (1822) đổi Thượng Hồng làm phủ Bình Giang, Hạ Hồng làm phủ Ninh Giang, còn hai đạo Đông Triều và An Lão thì đặt làm hai huyện.
- Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) chia thành một hạt độc lập và đổi làm tỉnh Hải Dương gồm 5 phủ 19 huyện.
- Năm 1887, thực dân Pháp tách một số huyện ven biển của Hải Dương, đặt thành tỉnh Hải Phòng; đến 1906, đổi thành tỉnh Kiến An.
- Năm 1968, tỉnh Hải Dương sáp nhập với Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng, đến đầu năm 1997 lại tách riêng ra với tên gọi như ngày nay.
Mảnh đất Hải Dương hiện đang lưu giữ khối lượng lớn văn hoá vật thể và phi vật thể đa dạng, độc đáo với 1.098 di tích lịch sử, văn hoá, danh thắng. Từ những dấu ấn thời kỳ đồ đá cũ có niên đại trên 3 vạn năm ở hang Thánh Hoá, núi Nhẫm Dương, đến những di chỉ, di vật có giá trị của thời đại đồ Ðồng tại Ðồi Thông (Kinh Môn), Hữu Chung (Tứ Kỳ), làng Gọp (Thanh Hà),... Văn hoá Lý, Trần, Lê, Nguyễn là dòng chảy liên tục và rực sáng trên vùng đất này, đã tạo nên một không gian văn hoá đặc biệt - nơi kết hợp hài hòa cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ với chiều sâu lịch sử và tâm linh với 127 di tích được xếp hạng quốc gia mà tiêu biểu là Côn Sơn - Kiếp Bạc, Phượng Hoàng (Chí Linh). Chỉ trong một không gian chừng 5 km2 đã có hàng chục di tích lưu giữ những kỷ niệm về 3 danh nhân vĩ đại của đất nước và thế giới. Ðó là Trần Hưng Ðạo- danh nhân quân sự, Nguyễn Trãi - danh nhân văn hoá, Chu Văn An - "người thầy của muôn đời"; cùng An Phụ, Kính Chủ (Kinh Môn) đã trở thành những huyền thoại của non sông đất Việt.
Địa lý tự nhiên
Diện tích: 1.662 km²
Tọa độ
Vĩ độ: 20°43' đến 21°14' độ vĩ Bắc
Kinh độ: 106°03' đến 106°38' độ kinh Đông
Địa hình
Hải Dương được chia làm 2 vùng: vùng đồi núi và vùng đồng bằng. Vùng đồi núi nằm ở phía bắc tỉnh, chiếm 11% diện tích tự nhiên gồm 13 xã thuộc thị xã Chí Linh và 18 xã thuộc huyện Kinh Môn; là vùng đồi núi thấp, phù hợp với việc trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ và cây công nghiệp ngắn ngày. Vùng đồng bằng còn lại chiếm 89% diện tích tự nhiên do phù sa sông Thái Bình bồi đắp, đất màu mỡ, thích hợp với nhiều loại cây trồng, sản xuất được nhiều vụ trong năm.
Khí hậu
Hải Dương nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, chia làm 4 mùa rõ rệt (xuân, hạ, thu, đông).
Vào giai đoạn từ tiết lập xuân đến tiết thanh minh (khoảng đầu tháng hai - đầu tháng tư dương lịch) có hiện tượng mưa phùn và nồm là giai đoạn chuyển tiếp từ mùa khô sang mùa mưa. Mùa mưa kéo dài từ tháng tư đến tháng mười hàng năm.
Khí hậu thời tiết thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, bao gồm cây lương thực, thực phẩm và cây ăn quả, đặc biệt là sản xuất cây rau màu vụ đông.
Tài nguyên
Các khoáng sản chính:
Tọa độ
Vĩ độ: 20°43' đến 21°14' độ vĩ Bắc
Kinh độ: 106°03' đến 106°38' độ kinh Đông
Địa hình
Hải Dương được chia làm 2 vùng: vùng đồi núi và vùng đồng bằng. Vùng đồi núi nằm ở phía bắc tỉnh, chiếm 11% diện tích tự nhiên gồm 13 xã thuộc thị xã Chí Linh và 18 xã thuộc huyện Kinh Môn; là vùng đồi núi thấp, phù hợp với việc trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ và cây công nghiệp ngắn ngày. Vùng đồng bằng còn lại chiếm 89% diện tích tự nhiên do phù sa sông Thái Bình bồi đắp, đất màu mỡ, thích hợp với nhiều loại cây trồng, sản xuất được nhiều vụ trong năm.
Khí hậu
Hải Dương nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, chia làm 4 mùa rõ rệt (xuân, hạ, thu, đông).
Vào giai đoạn từ tiết lập xuân đến tiết thanh minh (khoảng đầu tháng hai - đầu tháng tư dương lịch) có hiện tượng mưa phùn và nồm là giai đoạn chuyển tiếp từ mùa khô sang mùa mưa. Mùa mưa kéo dài từ tháng tư đến tháng mười hàng năm.
- Lượng mưa trung bình hàng năm: 1.300 – 1.700 mm
- Nhiệt độ trung bình: 23,3 °C
- Số giờ nắng trong năm: 1.524 giờ
- Độ ẩm tương đối trung bình: 85 – 87%
Khí hậu thời tiết thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, bao gồm cây lương thực, thực phẩm và cây ăn quả, đặc biệt là sản xuất cây rau màu vụ đông.
Tài nguyên
Các khoáng sản chính:
- Đá vôi xi măng ở Kinh Môn, trữ lượng 200 triệu tấn, hàm lượng CaCO3 từ 90 - 97%. Đủ để sản xuất 4 đến 5 triệu tấn xi măng/năm trong thời gian 50 - 70 năm.
- Cao lanh ở Kinh Môn, Chí Linh trữ lượng 400.000 tấn, hàm lượng Fe2O3: 0,8 - 1,7%; Al2O3: 17 - 19% cung cấp nguyên liệu cho sản xuất đồ sứ.
- Đất sét chịu lửa ở Chí Linh, trữ lượng 8 triệu tấn, chất lượng tốt; hàm lượng Al2O3: 23,5 - 28%, Fe2O3: 1,2 - 1,9% cung cấp nguyên liệu sản xuất gạch chịu lửa.
- Bô xít ở Kinh Môn, trữ lượng 200.000 tấn; hàm lượng Al2O3: từ 46,9 - 52,4%, Fe2O3: từ 21 - 26,6%; SiO2 từ 6,4 - 8,9%.
Dân số
Năm 2011 Hải Dương có 1.718.895 người với mật độ dân số 1.039 người/km² Thành phần dân số:
- Nông thôn: 78,1%
- Thành thị: 21,9%.
Diện tích (km2) Dân số (người) Mật độ (người/km2) Toàn tỉnh 1.654,8 1.718.895 1.039 TP Hải Dương 71,4 215.566 3.019 TX Chí Linh 282,0 160.349 569 Nam Sách 109,1 112.558 1.032 Kinh Môn 163,5 159.534 976 Kim Thành 115,2 122.782 1.066 Thanh Hà 159,1 154.414 971 Cẩm Giàng 109,0 128.839 1.182 Bình Giang 104,8 105.535 1.007 Gia Lộc 112,4 135.387 1.205 Tứ Kỳ 170,4 158.769 932 Ninh Giang 135,5 141.677 1.046 Thanh Miện 122,4 123.485 1.009
Kinh tế
Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) năm 2003 ước đạt gần 8.350 tỷ đồng (chỉ số giá năm 1994).
Cơ cấu nông, lâm thuỷ sản - công nghiệp, xây dựng - dịch vụ: 30% - 41% - 29%.
Hải Dương có số thu ngân sách cao thứ 12 cả nước với 2,550 tỉ (2006).
Năm 2008, Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng 10,5%; Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,9%; Giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng tăng 13%. Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng 13,5%.
Giá trị hàng hoá xuất khẩu ước đạt 420 triệu USD, tăng 73,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, chủ yếu tăng do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (tăng 85,7%). Tổng giá trị nhập khẩu ước đạt 440 triệu USD, tăng 47,9% so với cùng kỳ năm trước.
Đến nay Hải Dương đã quy hoạch 10 khu công nghiệp với tổng diện tích 2.719 ha. Với chính sách thông thoáng, ưu đãi các nhà đầu tư trong và ngoài nước, với lợi thế vị trí thuận lợi, Hải Dương đã thu hút nhiều nhà đầu tư vào khu công nghiệp. Trên địa bàn tỉnh có 236 dự án FDI của các nhà đầu tư đến từ 24 quốc gia và vùng lãnh thổ, với tổng vốn đầu tư đăng ký 5,650 tỷ USD
Hải Dương là tỉnh nằm giữa vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, cách Hà Nội 60 km, cách thành phố Hải Phòng 45 km và cách vịnh Hạ Long 80 km. Tỉnh có hệ thống giao thông đường sắt, đường bộ, đường thuỷ rất thuận lợi, có quốc lộ 5 chạy qua tỉnh, phần qua tỉnh dài 44 km, quốc lộ 18 chạy qua phía bắc tỉnh, phần qua tỉnh dài 20 km, quốc lộ 183 chạy dọc tỉnh nối quốc lộ 5 và quốc lộ 18 dài 22 km, tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng chạy song song với đường quốc lộ 5 có 7 ga đỗ đón trả khách nằm trên địa bàn tỉnh. Tuyến đường sắt Kép - Phả Lại cung cấp than cho nhà máy điện Phả Lại. Hệ thống giao thông thuỷ có 16 tuyến dài 400 km do trung ương và tỉnh quản lý cho tàu thuyền trọng tải 400 – 500 tấn qua lại dễ dàng. Vị trí địa lý và hệ thống giao thông trên đã tạo điều kiện cho Hải Dương giao lưu kinh tế với các tỉnh, thành phố trong nước và quốc tế rất thuận lợi, Hải Dương sẽ có cơ hội tham gia vào phân công lao động trên phạm vi toàn vùng Bắc Bộ, đặc biệt là trao đổi hàng hoá với các tỉnh, thành phố trong cả nước và xuất khẩu.
Cơ cấu nông, lâm thuỷ sản - công nghiệp, xây dựng - dịch vụ: 30% - 41% - 29%.
Hải Dương có số thu ngân sách cao thứ 12 cả nước với 2,550 tỉ (2006).
Năm 2008, Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng 10,5%; Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,9%; Giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng tăng 13%. Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng 13,5%.
Giá trị hàng hoá xuất khẩu ước đạt 420 triệu USD, tăng 73,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, chủ yếu tăng do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (tăng 85,7%). Tổng giá trị nhập khẩu ước đạt 440 triệu USD, tăng 47,9% so với cùng kỳ năm trước.
Đến nay Hải Dương đã quy hoạch 10 khu công nghiệp với tổng diện tích 2.719 ha. Với chính sách thông thoáng, ưu đãi các nhà đầu tư trong và ngoài nước, với lợi thế vị trí thuận lợi, Hải Dương đã thu hút nhiều nhà đầu tư vào khu công nghiệp. Trên địa bàn tỉnh có 236 dự án FDI của các nhà đầu tư đến từ 24 quốc gia và vùng lãnh thổ, với tổng vốn đầu tư đăng ký 5,650 tỷ USD
Hải Dương là tỉnh nằm giữa vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, cách Hà Nội 60 km, cách thành phố Hải Phòng 45 km và cách vịnh Hạ Long 80 km. Tỉnh có hệ thống giao thông đường sắt, đường bộ, đường thuỷ rất thuận lợi, có quốc lộ 5 chạy qua tỉnh, phần qua tỉnh dài 44 km, quốc lộ 18 chạy qua phía bắc tỉnh, phần qua tỉnh dài 20 km, quốc lộ 183 chạy dọc tỉnh nối quốc lộ 5 và quốc lộ 18 dài 22 km, tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng chạy song song với đường quốc lộ 5 có 7 ga đỗ đón trả khách nằm trên địa bàn tỉnh. Tuyến đường sắt Kép - Phả Lại cung cấp than cho nhà máy điện Phả Lại. Hệ thống giao thông thuỷ có 16 tuyến dài 400 km do trung ương và tỉnh quản lý cho tàu thuyền trọng tải 400 – 500 tấn qua lại dễ dàng. Vị trí địa lý và hệ thống giao thông trên đã tạo điều kiện cho Hải Dương giao lưu kinh tế với các tỉnh, thành phố trong nước và quốc tế rất thuận lợi, Hải Dương sẽ có cơ hội tham gia vào phân công lao động trên phạm vi toàn vùng Bắc Bộ, đặc biệt là trao đổi hàng hoá với các tỉnh, thành phố trong cả nước và xuất khẩu.
Giao thông
Đường bộ: Có các đường quốc lộ sau chạy qua:
- Quốc lộ 5 từ Hà Nội tới Hải Phòng, phần chạy ngang qua giữa tỉnh Hải Dương dài 44,8 km.
- Quốc lộ 18 từ Hà Nội qua Bắc Ninh, Hải Dương đến vùng than và cảng Cái Lân của tỉnh Quảng Ninh. Phần đường chạy qua Chí Linh dài 20 km.
- Quốc lộ 37 dài 65,2 km phục vụ trực tiếp cho khu du lịch Côn Sơn - Kiếp Bạc thuộc thị xã Chí Linh.
- Quốc lộ 38 dài 13 km là đường cấp III đồng bằng.
- Quốc lộ 38B dài 145,06 km là đường cấp III đồng bằng, nối Hải Dương tới Ninh Bình.
- Quốc lộ 10, dài 9 km. Quy mô cấp III đồng bằng.
- Đường cao tốc từ Hà Nội tới Hải Phòng ( đường 5 mới ) đang vào giai đoạn thi công.
- Đường tỉnh: có 14 tuyến dài 347,36 là đường nhựa tiêu chuẩn cấp III đồng bằng
- Đường huyện có 392,589 km và 1386,15 km đường xã đảm bảo cho xe ô tô đến tất cả các vùng trong mọi mùa.
- Tuyến Hà Nội - Hải Phòng chạy song song với đường 5, vận chuyển hàng hoá, hành khách qua 7 ga trong tỉnh Hải Dương.
- Tuyến Kép - Bãi Cháy chạy qua Chí Linh, là tuyến đường vận chuyển hàng lâm, nông, thổ sản ở các tỉnh miền núi phía bắc ra nước ngoài qua cảng Cái Lân (Quảng Ninh), cũng như hàng nhập khẩu và than cho các tỉnh này.
- Đường thuỷ: Có 16 tuyến sông chính nối với các sông nhỏ dài 400 km; các loại tàu, thuyền trọng tải 500 tấn có thể qua lại. Cảng Cống Câu công suất 300.000 tấn/năm và hệ thống bến bãi đáp ứng về vận tải hàng hoá bằng đường thuỷ một cách thuận lợi. Hệ thống giao thông trên là điều kiện cho việc giao lưu kinh tế từ trong tỉnh đi cả nước và nước ngoài thuận lợi.Hiện tại trên địa bàn tỉnh Hải Dương có 12 tuyến sông do Trung ương quản lý như Sông Thái Bình, sông Thương, sông Luộc, sông Kinh Thầy, sông Kinh Môn... Tổng chiều dài 274,5 km, trong đó có sông Thái Bình, sông Luộc là những tuyến đường thuỷ quan trọng của khu vực đồng bằng sông Hồng.
Văn hóa lịch sử
Hải Dương là một trong những vùng đất "địa linh nhân kiệt", vùng văn hoá và văn hiến tâm linh chính của cả nước. Theo dòng lịch sử đã để lại cho Hải Dương 1.098 di tích lịch sử, trong đó có 133 di tích được xếp hạng cấp quốc gia và nhiều di tích được xếp hạng đặc biệt như Côn Sơn, Kiếp Bạc. Hải Dương cũng là miền đất sinh ra và gắn liền với tên tuổi của nhiều anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới như: danh nhân quân sự thế giới Trần Hưng Đạo, một trong mười tướng tài trên thế giới, vị anh hùng dân tộc Việt Nam với chiến công hiển hách - ba lần chiến thắng quân Nguyên; Danh sư Chu Văn An, nhà giáo tài đức vẹn toàn, lịch sử tôn ông là nhà nho có đức nghiệp lớn nhất; Danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi, người có tầm tư tưởng vượt lên nhiều thế kỷ; Lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi với học vấn đứng đầu cả nước, ông đã góp phần làm dạng danh đất nước; Đại danh y Tuệ Tĩnh, vị thánh thuốc nam được cả nước ngưỡng mộ. Hải Dương cũng là quê hương của Phạm Sư Mạnh, Đoàn Nhữ Hài, cùng với Mạc Đĩnh Chi là những đại thần có tài đức, được xếp vào hàng "Người phò tá có công lao tài đức đời Trần", được người đời khen tụng.
Trí tuệ, tài năng của người Hải Dương cũng đóng góp cho sử sách Việt Nam 486 tiến sỹ (tính theo đơn vị hành chính mới, 637 vị tính theo đơn vị hành chính cũ) trong tổng số 2.989 vị đỗ đại khoa qua các triều đại, chiếm 16% ( 22%) đứng đầu cả nước, tiêu biểu là làng Mộ Trạch (Bình Giang – Hải Dương) được gọi là “lò tiến sỹ xứ Đông” có 36 vị đỗ đại khoa, đứng đầu số người đỗ tiến sỹ tính theo đơn vị làng xã trong cả nước. Vào thời Lê sơ, ở Hải Dương đã có trường thi và miếu thờ các vị đại nho, tiêu biểu là Văn miếu Mao Điền.
Hiện nay, trong địa bàn tỉnh Hải Dương còn nhiều di tích lịch sử-văn hóa như: Đền Kiếp Bạc thờ Đức thánh Trần, đền Đoan và đền Tranh thờ Quan lớn Tuần Tranh, chùa Côn Sơn gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi, đền Cao, Văn miếu Mao Điền, di tích gốm sứ Chu Đậu-Mỹ Xá, di tích lịch sử chùa Bạch Hào. Khu di tích Kính Chủ - An Phụ, đảo cò Chi Lăng Nam...
Hải Dương cũng một trong những cái nôi của nghệ thuật rối nước, hiện nay tại Hải Dương còn 2 phường rối nước là Phường rối nước Thanh Hải-Thanh Hà, và Hồng Phong. Gắn liền với đời sống người nông dân, rối nước đã trở thành niền tự hào không của người dân Hải Dương mà còn là niềm tự hào của con người Việt Nam.
Mỹ Xá cũng là nơi mà Việt Nam Quốc dân đảng đã họp dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Thái Học để phát động phong trào Khởi nghĩa Yên Bái chống lại thực dân Pháp vào tháng 2 năm 1930.
Với những thuận lợi trên, Hải Dương có vị trí khá quan trọng trong vùng du lịch Bắc Bộ và cả nước.
Trí tuệ, tài năng của người Hải Dương cũng đóng góp cho sử sách Việt Nam 486 tiến sỹ (tính theo đơn vị hành chính mới, 637 vị tính theo đơn vị hành chính cũ) trong tổng số 2.989 vị đỗ đại khoa qua các triều đại, chiếm 16% ( 22%) đứng đầu cả nước, tiêu biểu là làng Mộ Trạch (Bình Giang – Hải Dương) được gọi là “lò tiến sỹ xứ Đông” có 36 vị đỗ đại khoa, đứng đầu số người đỗ tiến sỹ tính theo đơn vị làng xã trong cả nước. Vào thời Lê sơ, ở Hải Dương đã có trường thi và miếu thờ các vị đại nho, tiêu biểu là Văn miếu Mao Điền.
Hiện nay, trong địa bàn tỉnh Hải Dương còn nhiều di tích lịch sử-văn hóa như: Đền Kiếp Bạc thờ Đức thánh Trần, đền Đoan và đền Tranh thờ Quan lớn Tuần Tranh, chùa Côn Sơn gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi, đền Cao, Văn miếu Mao Điền, di tích gốm sứ Chu Đậu-Mỹ Xá, di tích lịch sử chùa Bạch Hào. Khu di tích Kính Chủ - An Phụ, đảo cò Chi Lăng Nam...
Hải Dương cũng một trong những cái nôi của nghệ thuật rối nước, hiện nay tại Hải Dương còn 2 phường rối nước là Phường rối nước Thanh Hải-Thanh Hà, và Hồng Phong. Gắn liền với đời sống người nông dân, rối nước đã trở thành niền tự hào không của người dân Hải Dương mà còn là niềm tự hào của con người Việt Nam.
Mỹ Xá cũng là nơi mà Việt Nam Quốc dân đảng đã họp dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Thái Học để phát động phong trào Khởi nghĩa Yên Bái chống lại thực dân Pháp vào tháng 2 năm 1930.
Với những thuận lợi trên, Hải Dương có vị trí khá quan trọng trong vùng du lịch Bắc Bộ và cả nước.
Giáo dục
Hải Dương nổi tiếng là đất học từ xa xưa, vùng đất Xứ Đông này là quê hương của nhiều nho sĩ, Trạng nguyên Việt Nam và Thủ khoa Đại Việt. Trong thời kì phong kiến Hải Dương có 12 Trạng nguyên (tính theo đơn vị hành chính mới, 15 vị tính theo đơn vị hành chính cũ) đứng thứ hai cả nước (sau Bắc Ninh) và có 3 Thủ khoa Đại Việt, hàng ngàn tiến sĩ, bảng nhãn, thám hoa.
Nằm bên đường quốc lộ 5, cách thành phố Hải Dương 15 km về phía bắc, thuộc xã Cẩm Điền, huyện Cẩm Giàng (Hải Dương), văn miếu Mao Điền được biết tới là một trong số ít văn miếu hàng tỉnh còn tồn tại ở Việt Nam. Lịch sử của văn miếu bắt đầu từ hơn 500 năm về trước. Từ giữa thế kỷ 15 cho đến khoa thi cuối cùng của nhà Nguyễn, nơi đây trở thành nơi thi hương của vùng trấn Hải Dương. Đặc biệt trong thời Nhà Mạc (1527-1593) đã bốn lần tổ chức thi đại khoa ở Mao Điền. Chỉ đứng sau Văn Miếu - Quốc Tử Giám, với hơn 500 năm tồn tại và thờ hơn 600 vị tiến sĩ, văn miếu Mao Điền đã trở thành niềm tự hào về truyền thống hiếu học của con người Xứ Đông.
Nền giáo dục hiện tại của Hải Dương được xem là một trong cái nôi đào tạo nhân tài của Việt Nam. Nhiều học sinh gốc từ Hải Dương đã đạt giải cao trong các kỳ thi Olympic Quốc tế. Trong kỳ thi toán Quốc tế, nổi bật như Đinh Tiến Cường [3] huy chương vàng toán Quốc tế năm 1989 với số điểm tuyệt đối 42/42, hiện tại là giáo sư toán học tại Đại học Paris 6 [4]; Nguyễn Duy Mạnh, huy chương vàng toán (2006); Phạm Thành Thái, huy chương vàng toán (2007); Trần Trọng Hùng, hai lần huy chương bạc toán (1987, 1988); Đỗ Thị Thu Thảo, huy chương bạc (2008); Nguyễn Xuân Cương, huy chương đồng (2009). Trong các kỳ thi Olympic về hóa học Quốc tế, điển hình có Ngô Xuân Hoàng, huy chương vàng hóa học (2005); Nguyễn Văn Khiêm, huy chương bạc (2001); đạt huy chương đồng có Lê Thanh Tùng (2003), Mai Thu Cúc (2010), Bùi Hữu Tài (bằng khen, 2002). Trong kỳ thi Olympic vật lý Quốc tế, điển hình có Nghiêm Viết Nam, huy chương đồng (2002); Hoàng Trung Trí, huy chương đồng (2003); Phạm Thành Long, huy chương bạc (2009).
Trong các kỳ thì Cao đẳng và Đại học, cũng như các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia. Hải Dương luôn trong nhóm dẫn đầu của Việt Nam. Trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia 2012, Hải Dương đứng thứ 5 cả nước (theo đơn vị tỉnh thành) về tổng số huy chương [5], trong đó có 6 giải nhất, đứng thứ hai cả nước chỉ sau Hà Nội (10 giải nhất).
Trên địa bàn Hải Dương có các trường Đại học và cao đẳng: Đại học Kỹ thuật Y tế Hải Dương, Đại học Hải Dương (tên cũ Đại học Kinh tê - Kỹ thuật Hải Dương), Trường Đại học Sao Đỏ, Đại học Thành Đông, Đại học Sư phạm kỹ thuật Hưng Yên (cơ sở Hải Dương), Cao đẳng Dược TW Hải Dương, Cao đẳng Hải Dương, Cao đẳng Du Lịch và Thương Mại...
Nằm bên đường quốc lộ 5, cách thành phố Hải Dương 15 km về phía bắc, thuộc xã Cẩm Điền, huyện Cẩm Giàng (Hải Dương), văn miếu Mao Điền được biết tới là một trong số ít văn miếu hàng tỉnh còn tồn tại ở Việt Nam. Lịch sử của văn miếu bắt đầu từ hơn 500 năm về trước. Từ giữa thế kỷ 15 cho đến khoa thi cuối cùng của nhà Nguyễn, nơi đây trở thành nơi thi hương của vùng trấn Hải Dương. Đặc biệt trong thời Nhà Mạc (1527-1593) đã bốn lần tổ chức thi đại khoa ở Mao Điền. Chỉ đứng sau Văn Miếu - Quốc Tử Giám, với hơn 500 năm tồn tại và thờ hơn 600 vị tiến sĩ, văn miếu Mao Điền đã trở thành niềm tự hào về truyền thống hiếu học của con người Xứ Đông.
Nền giáo dục hiện tại của Hải Dương được xem là một trong cái nôi đào tạo nhân tài của Việt Nam. Nhiều học sinh gốc từ Hải Dương đã đạt giải cao trong các kỳ thi Olympic Quốc tế. Trong kỳ thi toán Quốc tế, nổi bật như Đinh Tiến Cường [3] huy chương vàng toán Quốc tế năm 1989 với số điểm tuyệt đối 42/42, hiện tại là giáo sư toán học tại Đại học Paris 6 [4]; Nguyễn Duy Mạnh, huy chương vàng toán (2006); Phạm Thành Thái, huy chương vàng toán (2007); Trần Trọng Hùng, hai lần huy chương bạc toán (1987, 1988); Đỗ Thị Thu Thảo, huy chương bạc (2008); Nguyễn Xuân Cương, huy chương đồng (2009). Trong các kỳ thi Olympic về hóa học Quốc tế, điển hình có Ngô Xuân Hoàng, huy chương vàng hóa học (2005); Nguyễn Văn Khiêm, huy chương bạc (2001); đạt huy chương đồng có Lê Thanh Tùng (2003), Mai Thu Cúc (2010), Bùi Hữu Tài (bằng khen, 2002). Trong kỳ thi Olympic vật lý Quốc tế, điển hình có Nghiêm Viết Nam, huy chương đồng (2002); Hoàng Trung Trí, huy chương đồng (2003); Phạm Thành Long, huy chương bạc (2009).
Trong các kỳ thì Cao đẳng và Đại học, cũng như các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia. Hải Dương luôn trong nhóm dẫn đầu của Việt Nam. Trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia 2012, Hải Dương đứng thứ 5 cả nước (theo đơn vị tỉnh thành) về tổng số huy chương [5], trong đó có 6 giải nhất, đứng thứ hai cả nước chỉ sau Hà Nội (10 giải nhất).
Trên địa bàn Hải Dương có các trường Đại học và cao đẳng: Đại học Kỹ thuật Y tế Hải Dương, Đại học Hải Dương (tên cũ Đại học Kinh tê - Kỹ thuật Hải Dương), Trường Đại học Sao Đỏ, Đại học Thành Đông, Đại học Sư phạm kỹ thuật Hưng Yên (cơ sở Hải Dương), Cao đẳng Dược TW Hải Dương, Cao đẳng Hải Dương, Cao đẳng Du Lịch và Thương Mại...
Đặc sản
- Hải Dương nổi tiếng với đặc sản bánh đậu xanh thành phố Hải Dương, bánh gai thị Trấn Ninh Giang và vải thiều Thanh Hà,hành tỏi Kinh Môn...
- Các món ăn đặc sản: bún cá rô, bánh cuốn, rươi, mắm rươi, bún Vịt...
Nguyên Lãnh đạo
- Bà :Nguyễn Thị Minh hiện là Thứ trưởng Bộ Tài chính nguyên Chủ tịch UBND Tỉnh Hải Dương
- Bà Nguyễn Thị Kim Ngân hiện là Bí thư TW Đảng,Phó chủ tịch Quốc hội khóa XIII nguyên Bộ trưởng Bộ Lao động Thương binh và xã hội, nguyên Bí thư tỉnh ủy Hải Dương.
- Ông Phạm Thế Duyệt: Đại biểu quốc hội, nguyên chủ tịch mặt trận tổ quốc việt Nam.
- Ông Nguyễn Đức Kiên nguyên Phó chủ tịch Quốc hội, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Hải Dương.
- Bà Đặng Bích Liên : Thứ trưởng Bộ Văn Hóa Thể thao và Du lịch
- Thuợng tướng Nguyễn Văn Rinh : Nguyên thử trưởng Bộ Quốc Phòng
Tham khảo
- ^ a b “Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2011 phân theo địa phương”. Tổng cục Thống kê Việt Nam. Truy cập 30 tháng 9 năm 2012.
- ^ Hình dung về Vùng Thủ đô báo Hà Nội Mới 10/01/2008 08:23
- ^ 32 tuổi được phong giáo sư
- ^ Homepage của GS. Đinh Tiến Cường tại đại học Paris 6
- ^ Hà Nội dẫn đầu kì thi HS giỏi quốc gia 2012