Bắc Ninh là một tỉnh Việt Nam thuộc đồng bằng sông Hồng và nằm trên Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ. Bắc Ninh tiếp giáp với vùng trung du Bắc bộ tại tỉnh Bắc Giang. Bắc Ninh là cửa ngõ phía đông bắc của thủ đô. Tỉnh lỵ là thành phố Bắc Ninh nằm cách trung tâm Hà Nội 30 km vềphía đông bắc. phía tây và tây nam giáp thủ đô Hà Nội, phía bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía đông và đông nam giáp tỉnh Hải Dương, phía namgiáp tỉnh Hưng Yên. Trong quy hoạch xây dựng, tỉnh này thuộc vùng Thủ đô. Ngoài ra, Bắc Ninh còn nằm trên 2 hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
Bắc Ninh là tỉnh giàu văn hóa và nổi tiếng về dân ca Quan họ Bắc Ninh.
Bắc Ninh là tỉnh giàu văn hóa và nổi tiếng về dân ca Quan họ Bắc Ninh.
Lịch sử Trong thời kỳ nước Văn Lang,nước ta được chia làm có 15 bộ, bộ Vũ Ninh tương đương với tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Năm 1490, vua Lê Thánh Tông cho định lại bản đồ cả nước, gồm 13 (đạo) xứ thừa tuyên. Trong đó, Trấn (Xứ) Kinh Bắc gồm 4 phủ (20 huyện), hiện nay bao gồm toàn bộ ranh giới 2 tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh và một phần nhỏ các tỉnh thành lân cận là Hà Nội (toàn bộ khu vực phía bắc sông Hồng là: Gia Lâm, Long Biên, Đông Anh, Mê Linh, Sóc Sơn); Hưng Yên (Văn Giang, Văn Lâm) và Lạng Sơn (Hữu Lũng). Bắc Ninh là một trong 13 tỉnh được vua Minh Mạng thành lập đầu tiên ở Bắc Kỳ (năm 1831). Nguyên là trấn Kinh Bắc thời vua Gia Long, được đổi thành trấn Bắc Ninh năm 1822. Địa bàn tỉnh Bắc Ninh khi ấy bao trùm các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, một phần các tỉnh Hưng Yên, Lạng Sơn và thành phố Hà Nội ngày nay.
|
|
Hành chính
Cũng như các tỉnh và thành phố khác của Việt Nam, Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Ninh do người dân thành phố trực tiếp bầu lên, là cơ quan quyền lực nhà nước ở tỉnh. Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Ninh hiện nay, nhiệm kỳ 2011–2016, gồm 50 đại biểu, chủ tịch là Nguyễn Sỹ. Ủy ban Nhân dân tỉnh Bắc Ninh là cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân và là cơ quan hành chính nhà nước ở thành phố, chịu trách nhiệm chấp hành hiến pháp, pháp luật, các văn bản của Chính phủ và các nghị quyết của hội đồng nhân dân tỉnh.
Bắc Ninh bao gồm 01 thành phố, 1 thị xã và 06 huyện:
- Thành phố Bắc Ninh: 13 phường và 6 xã
- Thị xã Từ Sơn: 7 phường và 5 xã
- Huyện Gia Bình: 1 thị trấn và 13 xã
- Huyện Lương Tài: 1 thị trấn và 13 xã
- Huyện Quế Võ: 1 thị trấn và 20 xã
- Huyện Thuận Thành: 1 thị trấn và 17 xã
- Huyện Tiên Du: 1 thị trấn và 13 xã
- Huyện Yên Phong: 1 thị trấn và 13 xã
Điều kiện tự nhiên
Địa hình của tỉnh này tương đối phẳng, có hướng dốc chủ yếu từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông, được thể hiện qua các dòng chảy bề mặt đổ về sông Đuống và sông Thái Bình. Vùngđồng bằng thường có độ cao phổ biến từ 3-7 m, địa hình trung du (hai huyện Quế Võ và Tiên Du) có một số dải núi độ cao phổ biến 300–400 m. Diện tích đồi núi chiếm tỷ lệ nhỏ (0,53%) so với tổng diện tích, chủ yếu ở hai huyện Quế Võ và Tiên Du.
Bắc Ninh có mạng lưới sông ngòi khá dày đặc, mật độ lưới sông khá cao, trung bình 1,0 - 1,2 km/km2, có 3 hệ thống sông lớn chảy qua gồm sông Đuống, sông Cầu và sông Thái Bình.
Sông Đuống: Có chiều dài 42 km nằm trên đất Bắc Ninh, tổng lượng nước bình quân 31,6 tỷ m3. Mực nước cao nhất tại bến Hồ tháng 8/1945 là 9,64m, cao hơn so với mặt ruộng là 3 – 4 m. Sông Đuống có hàm lượng phù sa cao, vào mùa mưa trung bình cứ 1 m3 nước có 2,8 kg phù sa.
Sông Cầu: Tổng chiều dài sông Cầu là 290 km với đoạn chảy qua tỉnh Bắc Ninh dài 70 km, lưu lượng nước hàng năm khoảng 5 tỷ m3. Sông Cầu có mực nước trong mùa lũ cao từ 3 – 6 m, cao nhất là 8 m, trên mặt ruộng 1 – 2 m, trong mùa cạn mức nước sông lại xuống quá thấp ( 0,5 - 0,8 m ).
Sông Thái Bình: thuộc vào loại sông lớn của miền Bắc có chiều dài 385 km, đoạn chảy qua tỉnh Bắc Ninh dài 17 km. Do phần lớn lưu vực sông bắt nguồn từ các vùng đồi trọc miền đông bắc, đất đai bị sói mòn nhiều nên nước sông rất đục, hàm lượng phù sa lớn. Do đặc điểm lòng sông rộng, ít dốc, đáy nông nên sông Thái Bình là một trong những sông bị bồi lấp nhiều nhất. Theo tài liệu thực đo thì mức nước lũ lụt lịch sử sông Thái Bình đo được tại Phả Lại năm 1971 đạt tới 7,21 m với lưu lượng lớn nhất tại Cát Khê là 5000 m3/s.
Ngoài ra trên địa bàn tỉnh còn có các hệ thống sông ngòi nội địa như sông Ngũ huyện Khê, sông Dâu, sông Đông Côi, sông Bùi, ngòi Tào Khê, sông Đồng Khởi, sông Đại Quảng Bình.
Với hệ thống sông này nếu biết khai thác trị thuỷ và điều tiết nước sẽ đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tiêu thoát nước của tỉnh. Trong khi đó tổng lưu lượng nước mặt của Bắc Ninh ước khoảng 177,5 tỷ m3, trong đó lượng nước chủ yếu chứa trong các sông là 176 tỷ m3; được đánh giá là khá dồi dào. Cùng với kết quả thăm dò địa chất cho thấy trữ lượng nước ngầm cũng khá lớn, trung bình 400.000 m3/ngày, tầng chứa nước cách mặt đất trung bình 3–5 m và có bề dày khoảng 40 m, chất lượng nước tốt. Toàn bộ nguồn nước này có thể khai thác để phục vụ chung cho cả sản xuất và sinh hoạt trong toàn tỉnh, trong đó có các hoạt động của đô thị.
Bắc Ninh nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, chia làm 4 mùa rõ rệt (xuân, hạ, thu, đông). Có sự chênh lệch rõ ràng về nhiệt độ giữa mùa hè nóng ẩm và mùa đông khô lạnh. Sự chênh lệch đạt 15-16 °C.
Mùa mưa kéo dài từ tháng năm đến tháng mười hàng năm. Lượng mưa trong mùa này chiếm 80% tổng lượng mưa cả năm.
Bắc Ninh có mạng lưới sông ngòi khá dày đặc, mật độ lưới sông khá cao, trung bình 1,0 - 1,2 km/km2, có 3 hệ thống sông lớn chảy qua gồm sông Đuống, sông Cầu và sông Thái Bình.
Sông Đuống: Có chiều dài 42 km nằm trên đất Bắc Ninh, tổng lượng nước bình quân 31,6 tỷ m3. Mực nước cao nhất tại bến Hồ tháng 8/1945 là 9,64m, cao hơn so với mặt ruộng là 3 – 4 m. Sông Đuống có hàm lượng phù sa cao, vào mùa mưa trung bình cứ 1 m3 nước có 2,8 kg phù sa.
Sông Cầu: Tổng chiều dài sông Cầu là 290 km với đoạn chảy qua tỉnh Bắc Ninh dài 70 km, lưu lượng nước hàng năm khoảng 5 tỷ m3. Sông Cầu có mực nước trong mùa lũ cao từ 3 – 6 m, cao nhất là 8 m, trên mặt ruộng 1 – 2 m, trong mùa cạn mức nước sông lại xuống quá thấp ( 0,5 - 0,8 m ).
Sông Thái Bình: thuộc vào loại sông lớn của miền Bắc có chiều dài 385 km, đoạn chảy qua tỉnh Bắc Ninh dài 17 km. Do phần lớn lưu vực sông bắt nguồn từ các vùng đồi trọc miền đông bắc, đất đai bị sói mòn nhiều nên nước sông rất đục, hàm lượng phù sa lớn. Do đặc điểm lòng sông rộng, ít dốc, đáy nông nên sông Thái Bình là một trong những sông bị bồi lấp nhiều nhất. Theo tài liệu thực đo thì mức nước lũ lụt lịch sử sông Thái Bình đo được tại Phả Lại năm 1971 đạt tới 7,21 m với lưu lượng lớn nhất tại Cát Khê là 5000 m3/s.
Ngoài ra trên địa bàn tỉnh còn có các hệ thống sông ngòi nội địa như sông Ngũ huyện Khê, sông Dâu, sông Đông Côi, sông Bùi, ngòi Tào Khê, sông Đồng Khởi, sông Đại Quảng Bình.
Với hệ thống sông này nếu biết khai thác trị thuỷ và điều tiết nước sẽ đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tiêu thoát nước của tỉnh. Trong khi đó tổng lưu lượng nước mặt của Bắc Ninh ước khoảng 177,5 tỷ m3, trong đó lượng nước chủ yếu chứa trong các sông là 176 tỷ m3; được đánh giá là khá dồi dào. Cùng với kết quả thăm dò địa chất cho thấy trữ lượng nước ngầm cũng khá lớn, trung bình 400.000 m3/ngày, tầng chứa nước cách mặt đất trung bình 3–5 m và có bề dày khoảng 40 m, chất lượng nước tốt. Toàn bộ nguồn nước này có thể khai thác để phục vụ chung cho cả sản xuất và sinh hoạt trong toàn tỉnh, trong đó có các hoạt động của đô thị.
Bắc Ninh nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, chia làm 4 mùa rõ rệt (xuân, hạ, thu, đông). Có sự chênh lệch rõ ràng về nhiệt độ giữa mùa hè nóng ẩm và mùa đông khô lạnh. Sự chênh lệch đạt 15-16 °C.
Mùa mưa kéo dài từ tháng năm đến tháng mười hàng năm. Lượng mưa trong mùa này chiếm 80% tổng lượng mưa cả năm.
- Diện tích: 822,71 km² (là tỉnh có diện tích nhỏ nhất cả nước)
- Lượng mưa trung bình hàng năm: 1.400-1.600 mm
- Nhiệt độ trung bình: 23,3 °C
- Số giờ nắng trong năm: 1.530-1.776 giờ
- Độ ẩm tương đối trung bình: 79%
- Tọa độ: 21°00' - 21°05' Bắc, 105°45' - 106°15' Đông.
Tài nguyên, khoáng sản
- Rừng: Chủ yếu là rừng trồng. Trữ lượng ước tính 3.300 m³.
- Khoáng sản: Nghèo về tài nguyên khoáng sản, chủ yếu chỉ có vật liệu xây dựng như đất sét làm gạch, ngói, gốm với trữ lượng khoảng 4 triệu tấn ở Quế Võ và Tiên Du, đất sét làm gạch chịu lửa ở thành phố Bắc Ninh, đá cát kết trữ lượng 1 triệu tấn ở Thị Cầu, đá sa thạch ở Vũ Ninh trữ lượng khoảng 300.000 m³, than bùn ở Yên Phong với trữ lượng 60.000-200.000 tấn.
Dân số
Năm 2010, dân số Bắc Ninh là 1.038.229 người, chỉ chiếm 1,21% dân số cả nước và đứng thứ 39/64 tỉnh, thành phố, trong đó nam 511,7 nghìn người và nữ 526,5 nghìn người; khu vực thành thị 268,5 nghìn người, chiếm 25,9% dân số toàn tỉnh và khu vực nông thôn 769,7 nghìn người, chiếm 74,1%. Tính ra, mật độ dân số Bắc Ninh năm 2010 đã lên tới 1,262 người/km2, gần gấp 5 lần mật độ dân số bình quân của cả nước và là địa phương có mật độ dân số cao thứ 3 trong số 64 tỉnh, thành phố, chỉ thấp hơn mật độ dân số của Hà Nội và của thành phố Hồ Chí Minh.
- Nông thôn: 72,8%
- Thành thị: 27,2%
Kinh tế
- Từ khi tách ra vào năm 1997 kinh tế Bắc Ninh đã phát triển mạnh mẽ và đang đứng ở top đầu về kinh tế miền Bắc cũng như cả nước.
- Tốc độ tăng trưởng GDP những năm gần đây liên tục nằm trong top dẫn đầu cả nước bất chấp khủng hoảng kinh tế năm 2008-2009 và suy thoái 2011-2012:
+ Năm 2011 bất chấp những khó khăn của kinh tế trong nước, kinh tế Bắc Ninh vẫn đạt 16,2% - là tốc độ tăng trưởng cao nhất cả nước.
+ Năm 2012, GDP Bắc Ninh vẫn tăng trưởng khá, đạt 12,3% nằm trong các tỉnh thành dẫn đầu cả nước, trong bối cảnh kinh tế trong nước suy giảm và khó khăn hơn cả năm 2011.
- Năm 2012, tổng sản phẩm trong tỉnh(GDP) đạt trên 13.607 tỷ đồng ( đứng thứ 9 toàn quốc và thứ 2 khu vực đồng bằng sông Hồng ); cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa: Khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 77,82%; dịch vụ 16,57%; Nông, lâm nghiệp và thủy sản còn 5,61%.
- GDP bình quân đầu người đạt 67,4 triệu đồng/năm (tương đương 3.211 USD)(năm 2012 ) và nằm trong top thu nhập bình quân cao nhất cả nước.
- Xuất khẩu là điểm sáng trong sự phát triển vươt bậc của kinh tế Bắc Ninh và đã để lại những con số rất ấn tượng. Xuất khẩu giai đoạn 2001-2010 tăng trung bình là 47,91%/năm cá biệt giai đoạn 2005-2010 tăng tới 90,92%/năm (trong khi cả nước là 17,43%/năm). Năm 2011, Giá trị xuất khẩu Bắc Ninh đạt 7,441 tỷ USD một con số kỷ lục và vươn lên vị trí số 2 miền Bắc sau Hà Nội. Tuy nhiên đến năm 2012, giá trị xuất khẩu của Bắc Ninh đạt 13,7 tỷ USD đã đưa Bắc Ninh trở thành địa phương xuất khẩu lớn nhất miền Bắc, thứ 2 cả nước sau TP.HCM , xuất khẩu Bắc Ninh chiếm tới 12% giá trị xuất khẩu của cả nước.
- Tổng mức bán lẻ hàng hóa liên tục tăng nhanh, năm 2012 đạt 26000 tỷ đồng, tăng 18% so với năm 2011, nếu so trên dân số thì đây là con số khá của cả nước.
Công nghiệp
Đây là điểm sáng nhất và là động lực quan trọng nhất trong sự phát triển kinh tế của Bắc Ninh trong những năm vừa qua. Khi tách tỉnh, Bắc Ninh là một tỉnh thuần nông với nền công nghiệp không đáng kể đa phần là làng nghề. Tuy nhiên hết năm 2012, Bắc Ninh là tỉnh có quy mô công nghiệp lớn thứ 5 cả nước, thứ 2 miền Bắc và luôn duy trì tốc độ tăng trưởng cao nhất cả nước trong nhiều năm qua. Năm 2012, giá trị sản xuất công nghiệp đạt 84.884 tỷ đồng (CĐ1994) bằng 60% công nghiệp Bình Dương, là tỉnh có quy mô công nghiệp lớn thứ 2 cả nước. Và nhiều khả năng năm 2013, Công nghiệp Bắc Ninh sẽ gia nhập CLB 100.000 tỷ muộn hơn 3 năm so với Hà Nội, Đồng Nai và Bình Dương. Động lực cho tăng trưởng công nghiệp của Bắc Ninh tập trung ở các doanh nghiệp công nghệ cao như SamSung, Canon ...
Đầu tư
Năm 2011, Bắc Ninh là tỉnh có chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh đứng thứ 2 ở Việt Nam. Bắc Ninh đã thu hút được hầu hết các dự án công nghệ cao của cả nước như Canon, SamSung, Nokia, ABB ...
Đầu tư trong nước: Quý I/2013, toàn tỉnh đã cấp GCNĐT mới cho 12 dự án đầu tư trên địa bàn toàn tỉnh với tổng vốn đầu tư đăng ký 665 tỷ đồng. Luỹ kế đến nay, toàn tỉnh có 673 dự án đầu tư trong nước được cấp GCNĐT với tổng vốn đầu tư đăng ký sau điều chỉnh là 75.079 tỷ đồng.
Đầu tư nước ngoài: Quý I/2013, toàn tỉnh đã cấp GCNĐT mới cho 25 dự án FDI với tổng vốn đăng ký đầu tư 80,52 triệu USD; cấp GCNĐT điều chỉnh tăng vốn cho 08 dự án với mức vốn tăng thêm 27,72 triệu USD; tổng vốn đầu tư đăng ký sau điều chỉnh là 108,24 triệu USD; thu hồi 01 dự án đầu tư với tổng vốn đầu tư 30 triệu USD. Luỹ kế đến nay, toàn tỉnh có 390 đơn vị FDI với tổng vốn đầu tư đăng ký sau điều chỉnh là 4,7 tỷ USD.
Đầu tư trong nước: Quý I/2013, toàn tỉnh đã cấp GCNĐT mới cho 12 dự án đầu tư trên địa bàn toàn tỉnh với tổng vốn đầu tư đăng ký 665 tỷ đồng. Luỹ kế đến nay, toàn tỉnh có 673 dự án đầu tư trong nước được cấp GCNĐT với tổng vốn đầu tư đăng ký sau điều chỉnh là 75.079 tỷ đồng.
Đầu tư nước ngoài: Quý I/2013, toàn tỉnh đã cấp GCNĐT mới cho 25 dự án FDI với tổng vốn đăng ký đầu tư 80,52 triệu USD; cấp GCNĐT điều chỉnh tăng vốn cho 08 dự án với mức vốn tăng thêm 27,72 triệu USD; tổng vốn đầu tư đăng ký sau điều chỉnh là 108,24 triệu USD; thu hồi 01 dự án đầu tư với tổng vốn đầu tư 30 triệu USD. Luỹ kế đến nay, toàn tỉnh có 390 đơn vị FDI với tổng vốn đầu tư đăng ký sau điều chỉnh là 4,7 tỷ USD.
Thu ngân sách của Bắc Ninh
Thu ngân sách liên tục tăng trưởng ngoạn mục và đưa Bắc Ninh trở thành tỉnh nộp ngân sách lớn thứ 12 cả nước. Năm 2010, Bắc Ninh vào CLB 5000 tỷ và đến năm 2011 con số này là 6800 tỷ, đưa Bắc Ninh lần đầu tiên có khả năng tự cân đối ngân sách và đóng góp vào ngân sách nhà nước. Năm 2012 Bắc Ninh đã đạt tới 9.068,5 tỷ đồng và là một trong số ít tỉnh vượt rất xa dự toán ngân sách TW giao là 6.850 tỷ. Dự kiến năm 2013, Bắc Ninh sẽ gia nhập CLB 10000 tỷ về ngân sách và trở thành tỉnh trọng điểm ngân sách của nhà nước.
Những tồn tại
- Chất lượng hiệu quả tăng trưởng chưa cao và bền vững.
- Lao động trong nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh nhưng trong nội bộ ngành còn thiếu bền vững, đặc biệt trong công nghiệp tỷ lệ gia công còn chiếm tỷ trọng lớn, công nghiệp chế tạo, công nghiệp phù trợ còn hạn chế và chưa đáp ứng yêu cầu phát triển.
- Vấn đề giải quyết nhà ở và chăm lo đời sống cho công nhân lao động khu công nghiệp chưa được quan tâm đúng mức.
- Việc bảo vệ và khắc phục ô nhiễm môi trường tại các làng nghề chưa được xử lý triệt để.
Giao thông
Đường bộ:
Hệ thống xe buýt[2] :
Đường sắt:
Đường sắt quốc tế Hà Nội - Bắc Ninh - Hữu Nghị Quan ( Lạng Sơn )
Đường sắt Hà Nội - Bắc Ninh - Hạ Long ( Quảng Ninh ) đang được xây dựng.
Đường thủy:
Có hệ thống sông Cầu, sông Thái Bình và sông Đuống nối ra sông Hồng; các sông nhỏ như sông Ngũ Huyện Khê, sông Dâu, sông Đông Côi, sông Bùi, ngòi Tào Khê (nay không còn), sông Đồng Khởi, sông Đại Quảng Bình.
Đường Hàng không:
Bắc Ninh nằm liền kề với Sân bay Quốc tế Nội Bài. Từ trung tâm Tp.Bắc Ninh đến Sân bay Quốc tế Nội Bài khoảng 30 km được nối bằng QL 18
- Quốc lộ 1A cũ.
- Quốc lộ 1A mới ( Cao tốc Hà Nội - Bắc Ninh).
- Cao tốc Nội Bài - Bắc Ninh nằm trên đường quốc lộ 18 nối sân bay quốc tế Nội Bài với Thành phố Hạ Long và cảng Cái Lân, Quảng Ninh.
- Quốc lộ 38 từ thành phố Bắc Ninh đi thị trấn Đồng Văn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.
- Quốc lộ 5 Hà Nội - Hải Phòng liền kề với Bắc Ninh
- Cao tốc quốc lộ 3 mới Hà Nội - Bắc Ninh - Thái Nguyên đang xây dựng.
- TL 282 đang được nâng cấp thành Quốc lộ 282 đoạn ( Quế Võ - Gia Bình - Thuận Thành thuộc tỉnh Bắc Ninh ) nối Quốc lộ 18 ( tại Quế Võ ) với Quốc lộ 5 ( Hà Nội - Hải Phòng ) tại Thị trấn Trâu Quỳ - Gia Lâm - Hà Nội ( cách cầu vượt Thanh Trì khoảng 2 km hướng nội thành).
- Cùng với quy hoạch vành đai 2, 3, 4 của Hà Nội đều đi qua hầu hết các huyện, thị xã, thành phố của tỉnh Bắc Ninh tạo ra một mạng lưới giao thông đồng bộ, liên hoàn giữa Hà Nội với Bắc Ninh, và giữa Bắc Ninh với các tỉnh lân cận.
- Các tỉnh lộ:179, 270, 280, 281, 285, 287, 291, 295.
Hệ thống xe buýt[2] :
- 10 Hà Nội - Từ Sơn
- 10 Hà Nội - Trung Mầu ( giáp ranh với các xã Tri Phương và Đại Đồng, Tiên Du )
- 54 Hà Nội - Bắc Ninh ( khoảng 30 km nối Trung tâm Hà Nội với Trung tâm Bắc Ninh )
- 52 Công viên Thống Nhất - Lệ Chi ( giáp ranh với huyện Thuận Thành - Bắc Ninh )
- 203 Hà Nội - Bắc Ninh - Bắc Giang
- 204 Hà Nội - Thị trấn Hồ ( Huyện Thuận Thành )
- Hà Nội (Long Biên)- Gia bình - Lương Tài
- 01 Bắc Ninh - Cầu Hồ - Lương Tài
- 02 Bắc Ninh - Sao đỏ ( Hải Dương )
- 03 Bắc Ninh - Yên Phong.
- 08 Bắc Ninh - Cầu Hồ - Kênh Vàng
- Bắc Ninh - Quế Võ - TX. Chí Linh ( Hải Dương )
- 217 Bắc Ninh - Cầu Hồ - TP. Hải Dương
- Bắc Ninh - Đông Xuyên ( Yên Phong ) - TX. Từ Sơn
- Từ Sơn - Phật Tích - Thị trấn Lim
- Từ Sơn - Thị trấn Chờ - Bến đò Đông Xuyên
Đường sắt:
Đường sắt quốc tế Hà Nội - Bắc Ninh - Hữu Nghị Quan ( Lạng Sơn )
Đường sắt Hà Nội - Bắc Ninh - Hạ Long ( Quảng Ninh ) đang được xây dựng.
Đường thủy:
Có hệ thống sông Cầu, sông Thái Bình và sông Đuống nối ra sông Hồng; các sông nhỏ như sông Ngũ Huyện Khê, sông Dâu, sông Đông Côi, sông Bùi, ngòi Tào Khê (nay không còn), sông Đồng Khởi, sông Đại Quảng Bình.
Đường Hàng không:
Bắc Ninh nằm liền kề với Sân bay Quốc tế Nội Bài. Từ trung tâm Tp.Bắc Ninh đến Sân bay Quốc tế Nội Bài khoảng 30 km được nối bằng QL 18
Làng nghề truyền thống
- Làng Gỗ mỹ nghệ Hương Mạc
- Làng gò đúc đồng Đại Bái
- Làng tranh dân gian Đông Hồ
- Làng dệt Tam Tảo
- Làng dệt Hồi Quan
- Làng Gỗ mỹ nghệ Tam Sơn
- Làng gốm Phù Lãng
- "Làng" Giấy Phong Khê
- Làng Gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ
- Làng nghề sắt thép
- Làng Gỗ mỹ nghệ Mai Động
- Làng Gỗ mỹ nghệ Phù Khê
- Làng tơ tằm Vọng Nguyệt
- Làng đúc phế liệu
- Làng tre Xuân Lai
- Làng nghề Rượu
- Làng nghề đúc đồng truyền thống Quảng Bố-Lương Tài
Y tế
Đến nay, 100% số xã và trên 90% số thôn đã có nhân viên y tế hoạt động; 99% xã có nhà trạm; 72% số xã có bác sỹ hoạt động; 80% xã đạt chuẩn quốc gia về y tế xã; 78,8% trạm y tế xã thực hiện khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế (BHYT). Đặc biệt, ngành đã tiến hành kiểm soát tốt các dịch bệnh mới nổi, giảm tỷ lệ tử vong do bệnh tay chân miệng hơn 4 lần so với năm 2011. Ứng dụng thành công nhiều kỹ thuật hiện đại trong y học như: ghép tủy đồng loại, ghép gan, tim, thận...
Giáo dục
Bắc Ninh là đất học, giàu truyền thống khoa bảng, nơi tích tụ những tinh hoa của vùng Kinh Bắc xưa. Năm 2008, toàn tỉnh có 18.293 học sinh tốt nghiệp THPT, thì có 19.380 lượt học sinh dự thi ĐH, với tổng điểm bình quân 3 môn thi ĐH là 12,85. Bắc Ninh xếp thứ 6 toàn quốc về tổng điểm bình quân 3 môn thi[3]
Đại học - Học viện - Cao đẳng - THCN
- Trường Đại học Chính trị - trực thuộc Bộ Quốc Phòng nâng cấp từ trường Sĩ Quan Chính Trị ngày 23/12/2010
- Đại học Kỹ thuật - Hậu cần Công an nhân dân (T36) - Bộ Công an có trụ sở tại thị trấn Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
- Trường Đại học PCCC - Bộ Công an đang được xây dựng tại xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du ( thuộc Làng Đại học II )
- Học viện Ngân hàng - Phân viện Bắc Ninh
- Học viện Chính sách và Phát triển ( trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư )
- Trường Đại học Công nghệ Đông Á ( Võ Cường - TP Bắc Ninh )
- Trường Đại học Dược Hà Nội đang được xây dựng tại Làng Đại học tỉnh Bắc Ninh
- Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đang được xây dựng tại Làng Đại học tỉnh Bắc Ninh
- Trường Đại học Thể dục Thể thao Bắc Ninh (thị xã Từ Sơn)
- Trường Đại học Quốc tế Bắc Hà đang được xây dựng tại Làng Đại học thuộc thị trấn Lim, tỉnh Bắc Ninh
- Đại học Kinh Bắc có trụ sở tại phường Vũ Ninh, TP Bắc Ninh
- Trường Đại học Nha Trang (cơ sở Bắc Ninh)
Văn hóa-xã hội, di tích lịch sử
Bắc Ninh là "Vùng đất Văn hiến - Vùng đất địa linh nhân kiệt" được mệnh danh là vùng đất khoa bảng với " Một giỏ ông Đồ - Một bồ ông Cống - Một đống ông Nghè - Một bè Tiến sỹ - Một bị Trạng nguyên - Một thuyền Bảng nhãn”. Cùng với Thủ đô Hà Nội, cố đô Huế, Bắc Ninh là địa phương thứ 3 xây dựng văn miếu có tầm cỡ, qui mô, trang trọng. Văn miếu Bắc Ninh nổi tiếng với 677 vị đại khoa, chiếm 1/3 tổng số vị đại khoa của cả nước đã được vinh danh. Văn miếu Bắc Ninh với những trang lịch sử văn hóa, giáo dục còn lưu giữ được cho đến ngày nay là những cứ liệu vô cùng giá trị của nền văn minh ở vùng Kinh Bắc, nơi có thành Luy Lâu cổ, nơi Sỹ Nhiếp lần đầu dạy người Việt học chữ. Chùa Dâu, Chùa Phật Tích là những nơi phát tích của Phật giáo Việt Nam, nơi phát tích vương triều Lý Đền Đô, Chùa Dận... Đền Phụ Quốc - Làng Tam Tảo
Bắc Ninh nổi tiếng với các làn điệu quan họ, các làng nghề như làng tranh Đông Hồ, làng gốm Phù Lãng, gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ, rèn sắt Đa Hội, đúc đồng Đại Bái, dệt Hồi Quan. Các di tích lịch sử đáng kể có đền Đô, chùa Phúc Nghiêm Tự (chùa Tổ), đền Phụ Quốc, đình làng Đình Bảng, đình làng Tam Tảo v.v.
Con người Bắc Ninh mang trong mình truyền thống văn hoá, hiếu khách, cần cù và sáng tạo, với những bàn tay khéo léo mang đậm nét dân gian của vùng trăm nghề như tơ tằm, gốm sứ, đúc đồng, trạm bạc, khắc gỗ, làm giấy, tranh vẽ dân gian...
Đài Phát thanh - Truyền hình Bắc Ninh, báo Bắc Ninh là những đơn vị quảng bá hình ảnh văn hóa, con người Bắc Ninh.
Bắc Ninh nổi tiếng với các làn điệu quan họ, các làng nghề như làng tranh Đông Hồ, làng gốm Phù Lãng, gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ, rèn sắt Đa Hội, đúc đồng Đại Bái, dệt Hồi Quan. Các di tích lịch sử đáng kể có đền Đô, chùa Phúc Nghiêm Tự (chùa Tổ), đền Phụ Quốc, đình làng Đình Bảng, đình làng Tam Tảo v.v.
Con người Bắc Ninh mang trong mình truyền thống văn hoá, hiếu khách, cần cù và sáng tạo, với những bàn tay khéo léo mang đậm nét dân gian của vùng trăm nghề như tơ tằm, gốm sứ, đúc đồng, trạm bạc, khắc gỗ, làm giấy, tranh vẽ dân gian...
Đài Phát thanh - Truyền hình Bắc Ninh, báo Bắc Ninh là những đơn vị quảng bá hình ảnh văn hóa, con người Bắc Ninh.
Lễ hội
Vùng đất trù phú nơi đây khi xưa vốn là “xứ Kinh Bắc”, nổi tiếng với nhiều làng nghề và các lễ hội dân gian phong phú diễn ra hàng năm.
Hàng năm, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh diễn ra hơn 300 lễ hội lớn nhỏ khác nhau. Một số lễ hội tiêu biểu được liệt kê dưới đây:
Hàng năm, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh diễn ra hơn 300 lễ hội lớn nhỏ khác nhau. Một số lễ hội tiêu biểu được liệt kê dưới đây:
- Lễ hội Lim (thị trấn Lim, huyện Tiên Du) được tổ chức vào 13 tháng giêng hàng năm, tổ chức thi hát quan họ.
- Lễ hội làng Tam Tảo - Phú Lâm - Tiên Du. Được tổ chức vào ngày mồng 10 tháng 2 hàng năm, Kỷ niệm ngày sinh của ông bà Phụ Quốc Đại Vương Trần Quý và Minh Phúc Hoàng Thái Hậu Phương Dung. Tưởng nhớ ớn hai vị tướng Đào Lại Bộ người có công giúp Thục Phán An Dương Vương đánh Triệu Đà xâm lược.
- Lễ hội làng Kim Chân (Làng Tiến sỹ). Được tổ chức vào ngày 26 đến 28 tháng 2 hàng năm. Giỗ tổ họ Nguyễn.
- Lễ hội Đền Đô (Đình Bảng, thị xã Từ Sơn) để kỷ niệm ngày đăng quang của vua Lý Thái Tổ - 15 tháng 3 năm Canh Tuất 1010, và tưởng niệm các vị vua nhà Lý.
- Lễ hội Phù Đổng (của bốn xã trong đó có xã Phù Đổng huyện Tiên Du) ngày 9- tháng 4 để kỷ niệm vị anh hùng dân tộc Phù Đổng Thiên Vương.
- Lễ hội Thập Đình (của mười xã thuộc hai huyện Quế Võ và Gia Bình) để kỷ niệm trạng nguyên đầu tiên của Việt Nam tức Thái sư Lê Văn Thịnh và Doãn Công (Cao Doãn Công).
- Lễ hội Đền Cao Lỗ Vương ngày 10 - tháng 3 ở làng Tiểu Than(làng Dựng) xã Vạn Ninh và làng Đại Than (làng Lớ) ở xã Cao Đức, huyện Gia Bình.
- Lễ hội Đền Tam Phủ xã Cao Đức, huyện Gia Bình.
- Lễ hội Đồng Kỵ ngày 4 - tháng Giêng.
- Lễ hội Chùa Dâu ngày 8 - tháng 4.
- Lễ hội Đình Châm Khê ngày 4 - tháng tám (âm)
- Có câu:
Mùng chín đâu đâu trở về hội Gióng
Di tích, di sản văn hóa
- Lăng và đền thờ Kinh Dương Vương - Nam Bang Thủy Tổ (Kinh Dương Vương là cha của Lạc Long Quân)[4]
- Đền Lý Bát Đế thờ tám vị vua triều Lý
- Chùa Phật Tích
- Quan họ Bắc Ninh - Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại
- Đền thờ Nguyễn Cao
- Chùa Bút Tháp
- Chùa Tiêu - Trung tâm Phật giáo xưa của Việt Nam. Nơi thụ thai và nuôi dưỡng Lý Thái Tổ đến năm 15 tuổi.
- Chùa Tổ - Huyền tích của một vùng Tứ Pháp
- Nhà thờ họ Nguyễn làng Kim Đôi (làng Tiến sỹ)- Di tích lịch sử cấp Quốc gia (QĐ sỐ 100/QĐBT ngày 21/01/1989, sỐ danh mục 383)
- Chùa Dạm
- Chùa Dâu
- Đình làng Đình Bảng
- Chùa Phúc Lâm - Làng Tam Tảo - Phú Lâm - Tiên Du
- Đình Ngọc Quan
- Đình Bình Than, xã Cao Đức, huyện Gia Bình.
- Đình làng Hồi Quan
- Đình làng Dương Húc
- Đình làng Hoài Thị
- Đình làng Hoài Trung
- Đình làng Tam Tảo
- Đền Phụ Quốc - Làng Tam Tảo
- Đình Chùa Làng Yên Mẫn
- Đền Cao Lỗ Vương
- Đình Quan Đình
- Đình Mẫn Xá
- Đình Tiểu Than, Lăng mộ Cao Lỗ Vương
Danh nhân
- Cao Lỗ (Tướng chế nỏ thần thời An Dương Vương)
- Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ)
- Trần Quý (Phụ Quốc Đại Vương - Người có công cứu Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ)
- Đặng Thị Phương Dung (Minh Phúc Hoàng Thái Hậu - Người có công cứu Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ)
- Nguyên Phi Ỷ Lan
- Đàm Quốc Sư
- Nguyễn Đăng Đạo (lưỡng quốc Trạng nguyên)
- Nguyễn Văn Cừ
- Ngô Gia Tự
- Lê Quang Đạo
- Nguyễn Cao
- Hàn Thuyên
- Hoàng Quốc Việt
Bắc Ninh là tỉnh có nhiều trạng nguyên nhất Việt Nam: 16 trong tổng số 55 người:
- Lê Văn Thịnh (1075 - Trạng nguyên đầu tiên trong lịch sử phong kiến Việt Nam[5]
- Nguyễn Quan Quang (1234)
- Lý Đạo Tái (1272) - Tổ thứ ba (Huyền Quang) của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử
- Lưu Thúc Kiệm (1400)
- Nguyễn Nghiêu Tư (1448)-Trạng Lợn, Lưỡng quốc trạng nguyên.
- Vũ Kiệt (1472)
- Nguyễn Quang Bật (1484)
- Nghiêm Hoản (1496)
- Nguyễn Giản Thanh (1508) - Trạng Me
- Ngô Miễn Thiệu (1518)
- Hoàng Văn Tán (1523)
- Nguyễn Lượng Thái (1553)
- Phạm Quang Tiến (1565)
- Vũ Giới (1577)
- Nguyễn Xuân Chính (1637)
- Nguyễn Đăng Đạo (1683) - Trạng Bịu, Lưỡng quốc Trạng nguyên
Quy hoạch, định hướng
Xây dựng Bắc Ninh trở thành vùng đô thị lớn: Văn hiến, văn minh, giàu bản sắc (của văn hóa Kinh Bắc), hiện đại, sinh thái và bền vững, trên nền tảng kinh tế trí thức; có cơ sở hạ tầng đồng bộ và hiện đại; có môi trường sống tiện nghi, trong lành đáp ứng nhu cầu vật chất ngày một cao của nhân dân.
Quy hoạch xây dựng vùng tỉnh Bắc Ninh xác định lộ trình thực hiện:
- Đến năm 2015: Trở thành tỉnh công nghiệp, nâng cấp đô thị tỉnh Bắc Ninh đạt tiêu chí đô thị loại II.
- Đến năm 2020: Đạt tiêu chí đô thị loại I, trở thành TP trực thuộc Trung ương.
- Giai đoạn 2020 - 2030: Trở thành TP phát triển nổi trội về mặt văn hoá.
- Giai đoạn 2030 - 2050: Trở thành TP có chất lượng phát triển cao so với các TP ở trong nước, ngang tầm với những TP phát triển khá trong khu vực đông nam Á.
Điều chỉnh, cải tạo, nâng cấp các KĐT, KCN cũ theo hướng hiện đại, bền vững, gắn chương trình phát triển nông thôn mới với lộ trình phát triển đô thị toàn tỉnh theo phương châm "Chùm đô thị hướng tâm, nhất thể hóa đô thị nông thôn".
Quy hoạch xây dựng vùng tỉnh Bắc Ninh xác định lộ trình thực hiện:
- Đến năm 2015: Trở thành tỉnh công nghiệp, nâng cấp đô thị tỉnh Bắc Ninh đạt tiêu chí đô thị loại II.
- Đến năm 2020: Đạt tiêu chí đô thị loại I, trở thành TP trực thuộc Trung ương.
- Giai đoạn 2020 - 2030: Trở thành TP phát triển nổi trội về mặt văn hoá.
- Giai đoạn 2030 - 2050: Trở thành TP có chất lượng phát triển cao so với các TP ở trong nước, ngang tầm với những TP phát triển khá trong khu vực đông nam Á.
Điều chỉnh, cải tạo, nâng cấp các KĐT, KCN cũ theo hướng hiện đại, bền vững, gắn chương trình phát triển nông thôn mới với lộ trình phát triển đô thị toàn tỉnh theo phương châm "Chùm đô thị hướng tâm, nhất thể hóa đô thị nông thôn".
Hình ảnh
Tham khảo
- ^ a b “Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2011 phân theo địa phương”. Tổng cục Thống kê Việt Nam. Truy cập 30 tháng 9 năm 2012.
- ^ http://www.bacninh.gov.vn/sobannganh/Sogtvt/Trang/Tin%20chi%20ti%E1%BA%BFt.aspx?newsid=259&cid=5&dt=2012-08-28
- ^ http://baobacninh.com.vn/news_detail/77717/nhan-dien-giao-duc-bac-ninh-qua-cac-ky-thi-dai-hoc.html
- ^ http://dhthuanthanh.com/vi/article/thuy-to-viet-nam.aspx
- ^ http://donghuongbacninh.com/index.php?language=vi&nv=news&op=danh-nhan-doanh-nhan/15-Trang-Nguyen-Xu-Kinh-Bac-10